Sao Thái Dương là một bộ sao rất quan trọng trong khoa tử vi, là một bộ sao mang nhiều ý nghĩa thành bại trong toàn bộ lá số. Cho dù đóng ở bất ky cung nào thì vị trí của Sao Thái Dương cũng đều cần xem xét. Thái Dương tượng là Mặt Trời, là ánh sáng soi rọi tỏ tường vạn vật trong cõi trời đất, vì thế nó cũng tượng trưng cho thời thế, tượng cho sự sáng tỏ. Ở vị trí hãm địa hoặc gặp tam ám riêu đà kỵ thì sẽ làm giảm độ sáng, ngược lại nếu Đắc, Miếu, Vượng thể hiện sự quyền uy, sáng suốt, cuộc đời nhiều thành công từ lúc trẻ.
Sao Thái Dương là một bộ sao rất quan trọng trong khoa tử vi, là một bộ sao mang nhiều ý nghĩa thành bại trong toàn bộ lá số. Cho dù đóng ở bất ky cung nào thì vị trí của Sao Thái Dương cũng đều cần xem xét. Thái Dương tượng là Mặt Trời, là ánh sáng soi rọi tỏ tường vạn vật trong cõi trời đất, vì thế nó cũng tượng trưng cho thời thế, tượng cho sự sáng tỏ. Ở vị trí hãm địa hoặc gặp tam ám riêu đà kỵ thì sẽ làm giảm độ sáng, ngược lại nếu Đắc, Miếu, Vượng thể hiện sự quyền uy, sáng suốt, cuộc đời nhiều thành công từ lúc trẻ.
Sao Thái Dương, Thái Âm cùng tọa mệnh cung Mùi, hoặc mệnh tại cung Mùi, hai sao Thái Dương, Thái Âm cùng chiếu mệnh tại cung Sửu, gọi là "nhật nguyệt đồng làm cách” trí tuệ hơn người, sớm biết phòng xa, học để vận hành, nếu gặp sao Hóa Khoa, Hóa Quyền văn võ song toàn, quan cao chức trọng, số đại quý, nhưng phải đề phòng trắc trở trong hôn nhân và tình cảm.
Giờ Mùi là giờ từ 1h đến 3h chiều, Thái Dương là địa thế “Thiên ân”, mặt trời đang dần chuyển sang hướng tây nên yếu dần, lại có sao Thái Âm bất đắc địa cùng cung do đó có hiện tượng bị ảnh hưởng bởi sao Thái Âm.
Sao Thái Dương tại cung Sửu có sao Thái Âm cùng tọa, nhưng Thái Dương tại cung Sửu đang mất dần ánh sáng (thế bất đắc địa), mặt trăng lại sáng (nhập miếu) mà Thái Dương cung Mùi tuy hơi hướng về phía tây nhưng sức của nó vẫn rất lớn, mặt trăng vẫn chưa có chút ánh sáng. Thái Ấm của cung Sửu chiếu Thái Dương, lợi cho nữ mệnh Cung Mùi sao Thái Dương hỗ trợ Thái Âm, hợp với nam mệnh.
Do bắt buộc phải để tâm đến tác động của các sao khác nên là người cẩn thận bảo thủ, thích hợp với các công việc có tính ổn định có chế độ tại doanh nghiệp tư nhân hoặc công chức, giáo viên, không hợp làm kinh doanh. Công việc thường đảo lộn ngày đêm, hoặc làm công việc mà chỉ hợp với người khác giới (ví dụ nam nhưng làm công việc hộ lý). Nếu như người có cá tính cương trực hiếu động như Thái Dương, do ngày đang dần chuyển sang tây nên dễ trước chịu khó sau thì lười nhác, làm việc kiểu đầu voi đuôi chuột nếu như người có cá tính ngoài tỉnh trong nóng như Thái Âm thì không vận dụng được những lập luận trên.
Cung Mệnh tại cung Mùi, sao Thái Dương tại cung Tỵ, sao Thái Âm tại cung Dậu cùng chiếu cung Tài Bạch, cung Quan Lộc, gọi là “nhật nguyệt tịnh minh cách” hoặc “đàn trì quế trì cách”, bụng dạ quang minh lỗi lạc, thiếu niên nhờ học hành giỏi giang mà nổi tiếng, càng về sau càng ổn định, công danh chuyển cực đỉnh, nhưng gặp sao Kình Dương, Đà La hoặc sao Hóa Kỵ thì quan hệ không tốt với song thân.
Mệnh tọa cung Mùi, sao Thái Dương tại Mão, sao Thái Âm tại cung Hợi nhập miếu tam hợp cùng chiếu, gọi là “minh châu xuất hải cách”, yêu thích nhiều, sức sống dồi dào, có tài hoa, xử sự quang minh lỗi lạc, vững bước vào cung trăng, có được thanh danh, nữ mệnh thì tài đức đều có nếu như không có Tả, Hữu, Xương, Khúc, lại gặp phải Dương, Đà, Ky tinh xung phá, có tài nhưng không dùng được, chỉ có hư danh. Mệnh tọa cung Mùi, nếu như gặp sát tinh sẽ phá vỡ bố cục hài hòa duy trì lẫn nhau của Thái Âm và Thái Dương, khiến cho sao Thái Dương “cô lập”.
Người sinh năm Giáp: hai quý tinh Thiên Khôi, Thiên Việt lần lượt đối chiếu tại cung Mệnh và cung Thiên Di, gọi là “tọa quý hướng quy cách”, văn chương cái thế, quý nhân phù trợ. Đồng thời, cung mệnh sao Thái Dương hóa kỵ, quan hệ xấu với cha mẹ, cuộc đời bôn ba vất vả nữ mệnh tình cảm hôn nhân dễ trắc trở hoặc khả năng phải kết hôn muộn.
Người sinh năm Ất: cung Quan Lộc Sao Thiên Lương lạc hãm hóa quyền, cung mệnh sao Thái Âm hóa kỵ. Ý thức chủ quan lớn, làm việc có nguyên tắc, công việc có triển vọng, bất lợi với những họ hàng là nữ giới, nam mệnh hay phiêu dạt tha hương nữ mệnh tâm tính bất ổn, dễ có phiền nhiều trong tình cảm.
Người sinh năm Đinh: Sao Kình Dương nhập miếu tọa mệnh, gọi là “Kình Dương nhập miếu cách”, tuy sức mạnh và uy quyền xuất chúng, phú quý lẫy lừng, gặp Hỏa Tinh thì có quyền uy lớn gặp hung tinh thì khó tránh hình thương. Đồng thời cung mệnh sao Thái Âm hóa lộc, có duyên khác giới, tài lộc thuận lợi nam mệnh có thể lấy được vợ trẻ đẹp nhưng dễ bị mất do gặp phải đào hoa nữ mệnh tình cảm hay trục trặc. Người sinh năm Mậu: Hai quý tinh Thiên Khôi, Thiên Việt lần lượt đối chiếu tại tại cung Mệnh và cung Thiên Di, gọi là “tọa quý hướng quý cách”, văn chương cái thế, quý nhân phù trợ. Đồng thời, cung mệnh sao Thái Âm hóa quyền, tâm tư hay dao động, nữ mệnh có uy quyền, điều khiển được chồng, số vất vả nam mệnh có thể dựng cơ nghiệp. . .
Người sinh năm Kỷ: sao Kình Dương nhập miếu tọa mệnh, gọi là “Kình Dương nhập miếu cách”. Đồng thời, cung Quan Lộc Sao Thiên Lương hóa khoa, trong sự nghiệp tuy có thực quyền nhưng đánh giá rất tốt, danh tiếng thấp nhưng thích đứng đầu.
Người sinh năm Canh: Hai quý tinh Thiên Khôi, Thiên Việt lần lượt đối chiếu tại cung Mệnh và cung Thiên Di, gọi là “tọa quý hướng quy cách”, ra ngoài có quý nhân phù trợ nhưng sao Đà La cùng nhập mệnh sẽ phá hỏng sự hài hòa giữa ngày và đêm, do vậy sẽ phải cô độc, thành bại khó đoán biết. Đồng thời, cung mệnh sao Thái Dương hóa lộc, còn sao Thái Âm hóa hóa khoa, bôn ba vất vả, sự nghiệp thành công, có quý nhân nữ ngầm trợ giúp, tài hoa trong lĩnh vực nghệ thuật được thể hiện, quá coi trọng bề ngoài mà coi nhẹ thực chất, ví như chỉ coi trọng văn bằng có được mà không coi trọng những gì học được.
Người sinh năm Tân: Cung Mệnh sao Thái Dương hóa quyền. Càng có năng lực kiểm soát, tràn đầy tự tin, ý thức chủ quan lớn nữ mệnh thì tài giỏi, vất vả, tranh quyền với chồng, cuộc sống hôn nhân càng không tốt đẹp. Người sinh năm Nhâm: Cung Quan Lộc Sao Thiên Lương hóa lộc. Hợp với hành chính, giáo viên, có được thanh danh.
Người sinh năm Quý: Cung Mệnh sao Thái Âm hóa khoa. Có quý nhân nữ, tài hoa nghệ thuật có triển vọng, rất coi trọng bề ngoài mà coi nhẹ thực chất.
Người sinh tháng 3, tháng 5, hai sao Tả Phù, Hữu Bật cùng xen cung mệnh người sinh tháng 4, hai sao Tả Phù, Hữu Bật cùng tọa cung mệnh, nếu như không gặp phải hung tinh, sát tinh gọi là “tả hữu thủ viên cách? hoặc “tả hữu đồng cung cách”, giỏi lập kế hoạch, quan hệ xã giao tốt, mọi chuyện đều gặp dữ hóa lành, phúc lộc suốt đời.
Người sinh giờ Dần, Thìn, sao Văn Xương, Văn Khúc cùng xen cung mệnh, không có sát tinh tụ gọi là “Xương khúc xen mệnh cách” hoặc gọi là “văn tinh ám củng cách”, không có quý thì có ắt phú nữ mệnh có tài trí và sắc đẹp, đa tình. Người sinh giờ Mão, hai sao Văn Xương, Văn Khúc cùng tọa mệnh, gọi là “văn quý văn hóa cách”, cử chỉ nho nhã, hiểu biết, chuyên cần hiếu học, có tài kinh bang tế thế, có được vinh quang trong giới học thuật, nghệ thuật lại xuất thân cao quý.
Người sinh giờ Thìn, Thân, sao Địa Không hoặc Địa Kiếp nhập mệnh, thường hay tâm thần bất ổn lại hay bất đắc trí.
Sao Thái Dương tọa giữ cung Hợi, cung đối diện (cung Thiên Di) có sao Cự Môn vượng thế đối chiếu, tam hợp chiếu cung Tài Bạch Sao Thiên Lương vượng thế và sao Thái Âm lạc hãm cung Quan Lộc. Cá tính kiên cường, kiến giải riêng biệt, không giỏi giao tiếp với người khác, dễ gây ra thị phi, hay suy nghĩ, thường bận rộn, dễ mắc tật bệnh về mắt. Nếu như không gặp cát tinh thì khi nhỏ bất lợi cho cha, phải đổi tên hoặc cho làm con thừa tự, coi nhẹ tiền bạc, có thể làm nghệ thuật. Nữ mệnh, nếu gặp cát tinh, sự nghiệp có triển vọng, sau tuổi trung niên cuộc sống gia đình hạnh phúc viên mãn.
Sao Thái Dương tại cung Hợi, là mặt trời vào lúc 9h đến 11h tối, là “lạc hãm mất hào quang” mà không một chút hào quang, là bóng đêm trước bình minh, đang đợi bình minh ngày hôm sau đến, ngầm hàm chứa cơ hội phát triển vô hạn, nên so với Thái Dương cung Tuất tăng thêm rất nhiều hy vọng và trông đợi.
Sao Thái Dương lạc hãm tọa giữ cung Hợi, tam hợp chiếu sao Thái Âm cung Quan Lộc là lạc hãm mất ánh sáng, gọi là “nhật nguyệt phản bội cách”, đi sớm về khuya, số vất vả không được hưởng phúc thanh nhàn và hạnh phúc, duyên mỏng với cha mẹ, phải tha hương, tự lực gánh sinh, có đào hoa phiền nhiễu, có thể kết hợp công việc với cuộc sống.
Người sinh năm Giáp: Cung Mệnh sao Thái Dương hóa kỵ. Duyên nhỏ với cha mẹ, phải đề phòng bệnh về mắt, cuộc đời vất vả, sự nghiệp trắc trở không thuận. Nếu như gặp sát tinh, có học thức và kỹ năng chuyên môn, sự nghiệp có triển vọng, hợp làm việc công chức, giáo dục hoặc truyền thông đại chúng.
Người sinh năm Ất: Cung Tài Bạch Sao Thiên Lương hóa quyền, cung Quan Lộc sao Thái Âm hóa kỵ. Vất vả được tiên, cuộc đời vận mệnh hay thay đổi, có tài nhưng thành công muộn, hoặc trước bại sau thành, được nắm quyền trong sự nghiệp nếu như hung, sát tình cùng tọa thì hay trục trặc hoặc một việc không thành, bất lợi cho người thân nữ giới, hợp kết hôn muộn.
Năm Ất, giờ Mão, Tỵ, Mùi, Hợi các sao Dương, Lương, Xương, Lộc ba phương bốn hướng tụ hội tại cung mệnh, gọi là “dương lương xương lộc cách”, tiền bạc quan chức đều đẹp.
Người sinh năm Bính: Sao Thiên Việt tọa cung mệnh, có quý nhân khác giới ngầm trợ giúp, cơ vận tốt đẹp, mọi chuyện gặp hung hóa cát, một đời thuận lợi.
Người sinh năm Hợi, Mão, Mùi, cung Thiên Di sao Lộc Tồn và sao Mệnh Mã cùng tọa, hoặc người sinh năm Tỵ, Dậu, Sửu, các sao Lộc Tồn, Mệnh Mã cùng tọa cung mệnh, gọi là “lộc mã giao trì cách”, càng bôn ba càng sinh tài.
Năm Bính, Mậu, Nhâm, Ất, giờ sinh Mão, Tỵ, Mùi, Hợi bốn sao Thái Dương, Thiên Lương, Văn Xương, Lộc Tồn tề tựu cung vị ba phương bốn hướng (mệnh, thiên tài, quan) của cung mệnh, gọi là “dương lương xương lộc cách”, tham gia công chức hoặc thi cử nhà nước nhất định có thành tích tốt, tiền tài quan chức đều đẹp.
Người sinh năm Đinh: Sao Thiên Khôi tọa mệnh, khi cần người giúp đỡ nhất thì đều có quý nhân trợ giúp, mọi chuyện gặp dữ hóa lành, tiến triển thuận lợi. Đồng thời, cung Quan Lộc sao Thái Âm hóa lộc, cung Thiên Di sao Cự Môn hóa kỵ, sự nghiệp phát triển vất vả gấp bội, có được thành tựu, có thể giữ được lâu dài, nam mệnh nhiều diễm ngộ, nữ mệnh thì lại càng có khí chất ra ngoài nhiều thị phi, tình cảm cũng hay trắc trở, hợp kết hôn muộn, có học vấn và kỹ năng chuyên môn, hợp công chức, giáo viên hoặc truyền thông đại chúng.
Người sinh năm Mậu: Cung Quan Lộc sao Thái Âm hóa quyền. Có thể làm việc lao tâm, cũng có thể gây dựng sự nghiệp, nắm quyền, tình cảm hay rắc rối, hợp kết hôn muộn, nam mệnh trong sự nghiệp được trợ giúp của người khác giới nữ mệnh khả năng phán đoán, làm việc đều tốt, kiểm soát được chồng.
Người sinh năm Hợi, Mão, Mùi, sao Lộc, Mã cùng tọa cung Thiên Di, gọi là “lộc mã giao trì cách”, càng bôn ba càng sinh tài. Năm Mậu, giờ Mão, Tỵ, Mùi, Hợi bốn sao Dương, Lương, Xương, Lộc cùng hội tụ tại ba phương bốn hướng của cung mệnh, gọi là “dương lương xương lộc cách”, tiền tài quan chức đều đẹp.
Người sinh năm Kỷ: Cung Tài Bạch Sao Thiên Lương hóa khoa. Có được tiền trong sạch, lợi cho thi cử hoặc nghiên cứu tri thức mới, được người khác biếu tặng hoặc bố thí giúp đỡ người khác.
Người sinh năm Canh: Cung Mệnh sao Thái Dương hóa lộc, cung Tài Bạch sao Thái Âm hóa khoa. Bôn ba vất vả, sự nghiệp thành công, làm quan thì được chức cao, làm nhân viên văn phòng thì được làm phụ trách, kinh doanh có thể làm ông chủ có thể làm việc nghệ thuật hoặc môi giới mà được tài danh.
Người sinh năm Tân: Cung mệnh sao Thái Dương hóa quyền, cung Thiên Di sao Cự Môn hóa lộc, nếu như không có hung, sát, kị tinh xung phá, gọi là “quyền lộc tuần phòng cách”, tiền tài quan chức đều đẹp, cuộc đời thuận lợi chắc chắn, xuất thân danh giá, lời nói có cân nhắc, có sức thuyết phục, có thể kiếm tiền nhờ “miệng”, rất tự tin, có khả năng kiểm soát, bôn ba vất vả mới có được thành quả. Nữ mệnh có năng lực, vất vả, thích nắm quyền, dễ đoạt quyền chồng, đời sống hôn nhân hay trắc trở.
Người sinh năm Nhâm: Sao Lộc Tồn tọa cung mệnh, cuộc đời tài vận không ngừng, cần kiệm không lãng phí. Người sinh năm Nhâm Tý, Nhâm Dậu, Nhâm Sửu, sao Lộc Tồn, Mệnh Mã cùng tọa cung mệnh, gọi là “lộc mã giao trì cách”, càng bôn ba càng sinh tài. Năm Mậu, giờ sinh Mão, Tỵ, Mùi, Hợi bốn sao Thái Dương, Thiên Lương, Văn Xương, Lộc Tồn cùng tụ họp ba phương bốn hướng của cung mệnh, gọi là “dương lương xương lộc cách”, tham gia công chức, thi cử nhà nước nhất định có thành tích tốt, tiền tài quan chức đều đẹp.
Đồng thời, cung Tài Bạch Sao Thiên Lương hóa lộc, có tiền bất ngờ, mà Sao Thiên Lương chủ về thanh cao, lại thường khó chấp nhận khoản tiền bất ngờ hoặc sẽ vì vậy mà chịu gánh nặng tâm lý hoặc không có cách giải quyết thỏa đáng mà sinh ra rắc rối, thậm chí còn dẫn đến tranh chấp.
Người sinh năm Quý: Cung Thiên Di sao Cự Môn hóa quyền, cung Quan Lộc sao Thái Âm hóa khoa. Có thể phát huy uy lực ăn nói sao Cự Môn, khiến người tin phục, còn giảm bớt thị phi, có thể được tài danh trong nghệ thuật, làm môi giới, chỉ có điều phải đề phòng đào hoa gây ra tranh chấp.
Đồng thời, sao Đà La tọa mệnh thì phải chú ý bệnh tật ngâm trong cơ thể. Người sinh năm Quý Tỵ, Quý Dậu, Quý Sửu sao Thiên Mã cùng tọa mệnh, hai cung lân cận lại có sao Vũ Khúc, Lộc Tồn và sao Hóa Lộc (sao Phá Quân hóa lộc) xen mệnh, gọi là “tài lộc giáp mã cách”, tài vận tốt, càng hoạt động càng sinh tài.
Người sinh giờ Mùi, Hợi hại sao Văn Xương, Văn Khúc lần lượt tam hợp cùng chiếu cung Mệnh và cung Quan Lộc, gọi là “văn tinh củng mệnh cách”, hiểu biết, chuyên cần ham học, có trị nước giúp đời, có vinh quang trong ngành học thuật, văn nghệ, xuất thân danh giá Không hợp nữ mệnh, phúc không trọn vẹn, háo sắc.
Người sinh tháng 8, tháng 12, hai sao cát hỗ trợ Tả Phù, Hữu Bật lần lượt tam hợp cùng chiếu cung Mệnh và cung Tài Bạch, cuộc đời được nhiều hỗ trợ và giúp đỡ.
Người sinh tháng 2, 4, 8, 12, giờ Hợi sao Văn Xương tọa mệnh, sao Tả Phù chiếu vào từ ba phương bốn hướng, gọi là “Phù Tả Văn tinh cách”, có tài hoa nhạy bén, được địa vị cao, được trọng vọng. .
Người sinh giờ Tý, Sửu nhị Hợi sao Địa Không, Địa Kiếp cùng tọa cung mệnh, hoặc cùng xen cách cung mệnh, gọi là “mệnh lý phùng không cách” hoặc “không kiếp xen mệnh cách”, cuộc đời nhiều thăng trầm, giống như đi thuyền trong bão, lại thường có thất bại bất ngờ ví như “giữa đường gãy gánh”, bắt buộc tín ngưỡng tôn giáo mà thường xuyên xa nhà thì mới được thanh nhàn, kéo dài tuổi thọ. Năm Giáp giờ Sửu nhị Hợi, sao Hóa Kỵ tọa mệnh, lại gặp sao Địa Không, Địa Kiếp xen mệnh gọi là “Không Kiếp giáp Kỵ cách”, càng thêm phần bất lợi.
Giờ Hợi sao Thái Dương không còn chút hào quang, do vậy sao Thái Dương tọa mệnh cung Hợi là “lạc hãm mất hào quang” mà không một chút hào quang, là bóng đêm trước bình minh, đang đợi bình minh ngày hôm sau đến, ngầm hàm chứa cơ hội phát triển vô hạn, nên so với Thái Dương cung Tuất tăng thêm rất nhiều hy vọng và trông đợi. Sao Thái Dương lạc hãm tọa giữ cung Hợi, tam hợp chiếu sao Thái Âm cung quan lộc cũng là lạc hãm mất hào quang, cùng là “nhật nguyệt phản bối cách”, công việc khó tránh vất vả.